Mục tiêu: Khảo sát một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị ở bệnh nhân Thalassemia dân tộc Tày, Dao điều trị tại khoa Nhi, Bệnh viện đa khoa tỉnh Tuyên Quang năm 2017.
phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu kết hợp mô tả cắt ngang được tiến hành trên 151 bệnh nhân Thalassemia dân tộc Tày, Dao điều trị tại Khoa Nhi, Bệnh viện đa khoa tỉnh Tuyên Quang từ tháng 01/2017 đến tháng 12/2017.
Kết quả: Trong 151 bệnh nhân Thalassemia: 58,3% bệnh nhân mắc bệnh là nam; dân tộc Tày mắc bệnh tỷ lệ cao hơn 62,3%; bệnh nhân có da ánh vàng chiếm tỷ lệ cao 78,8%; có lách to chiếm 48,3%; đã cắt lách chiếm 13,3%; số bệnh nhi thiếu máu nặng chiếm 43%; thể tích trung bình hồng cầu (70,83 ± 6,12fl). Khối lượng trung bình hồng cầu (23,2 ± 3,97pg/l). Điện di huyết sắc tố có HbA1 là 71,98 ± 16,36; HbA2 là 3,20 ± 1,23 và HbF là 23,47 ± 21,83. Bệnh nhi α-Thalassemia chỉ chiếm 7,9%; β-Thalassemia chiếm 71,5%; 20,5% bệnh nhi có đường máu tăng; Ferritin máu tăng cao 2867,2 ± 2706ng/l. Có 4 bệnh nhân đến viện truyền máu > 1 năm/lần và 19 bệnh nhân khoảng cách truyền máu 2 tuần/lần. Số lượng hồng cầu khối dùng cho một bệnh nhân trong một đợt điều trị là 348,72 ± 205,7ml; thể β thal/HbE nhiều nhất 391,6 ± 193,3. Sau một đợt truyền máu số lượng huyết sắc tố tăng từ 30-60 g/l có 47/151 bệnh nhân chiếm 31,4%. Có 2 bệnh nhân lượng Hb giảm sau khi truyền máu. Ferritin có cải thiện sau điều trị với p < 0,05.
Kết luận: Tỷ lệ bệnh nhi Thalassemia ở nam giới cao hơn nữ giới, dân tộc Tày nhiều hơn dân tộc Dao. Tỷ lệ bệnh nhi da ánh vàng và lách to cao. Phần lớn bệnh nhi không có biến dạng xương, trong nghiên cứu này chủ yếu bệnh nhân nhi nên biến chứng biến dạng xương còn chưa rõ.
- DOI : https://doi.org/10.38148/JHDS.0506SKPT21-048
- Chủ đề : Mô hình sức khỏe, ốm đau, bệnh tật, chất lượng cuộc sống
- Loại bài báo : Nghiên cứu gốc
- Chuyên nghành : Chuyên Ngành Y
File toàn văn
- Thông tin liên hệ : Đỗ Thị Thu Giang
- Email : bsdogiang@gmail.com
- Địa chỉ : Bệnh viện đa khoa tỉnh Tuyên Quang
Bài báo liên quan
- Động lực làm việc của điều dưỡng tại Trung tâm y tế Lục Ngạn, Bắc Giang năm 2021
- Tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan của bệnh nhân ung thư phổi tại Bệnh viện K, cơ sở Tân Triều năm 2020
- Tuân thủ quy trình chuẩn bị người bệnh trước phẫu thuật của điều dưỡng tại khoa ngoại tổng hợp, bệnh viện Đa Khoa Trà Vinh năm 2020
- Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị ở bệnh nhân Thalassemia dân tộc Tày, Dao điều trị tại Khoa Nhi, bệnh viện đa khoa tỉnh Tuyên Quang năm 2017
- Gánh nặng kinh tế từ phía người bệnh có thẻ bảo hiểm y tế và gia đình do điều trị ung thư phổi tại Bệnh viện K năm 2020
- Điều kiện sống, lao động và tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản của người lao động tỉnh Đồng Tháp làm việc ở nước ngoài giai đoạn 2018 – 2020
- Kiến thức, thực hành vệ sinh tay của nhân viên y tế bệnh viện Y Dược cổ truyền tỉnh Sơn La năm 2021
- Chấp nhận tiêm vắc xin phòng COVID-19 và một số yếu tố liên quan của giáo viên tỉnh Tuyên Quang năm 2021
- Văn hóa an toàn người bệnh của nhân viên y tế tại Bệnh viện Nhi Trung ương năm 2020- 2021 và một số yếu tố liên quan
- Tình trạng căng thẳng trong công việc của nhân viên y tế và một số yếu tố liên quan tại Trung tâm Y tế huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên năm 2021
- Kiến thức, thái độ tuân thủ các hướng dẫn phòng bệnh viêm đường hô hấp cấp COVID-19 của người bệnh ngoại trú tại bệnh viện đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh, năm 2021
- Kết quả phục hồi chức năng chi trên ở bệnh nhân liệt nửa người do nhồi máu não bằng thiết bị mô phỏng thực tế ảo
- Thực trạng thực hiện và nhu cầu đào tạo liên tục các kỹ thuật cơ bản của điều dưỡng tại một số khoa lâm sàng, bệnh viện Nhi Trung Ương năm 2020
- Kiến thức, thái độ của phụ nữ từ 20-35 tuổi về dự phòng dị tật bẩm sinh và một số yếu tố liên quan tại thành phố Buôn Ma Thuột tỉnh Đắk Lắk năm 2019
- Thực trạng và một số yếu tố ảnh hưởng đến văn hóa an toàn người bệnh của nhân viên y tế bệnh viện đa khoa quốc tế Vinmec Nha Trang năm 2021
- Chất lượng cuộc sống và một số yếu tố liên quan của người bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính điều trị ngoại trú tại bệnh viện Phổi Hà Nội năm 2020