Mục tiêu: Đánh giá sự thay đổi khả năng đáp ứng thuốc Selumetinib của dòng tế bào UTĐTT kháng thuốc Selumetinib HT-29/SR so với dòng tế bào UTĐTT ban đầu HT-29/P và 2) Xác định sự biến đổi ở mức độ phân tử của dòng tế bào UTĐTT kháng thuốc Selumetinib HT-29/SR so với dòng tế bào UTĐTT ban đầu HT-29/P.
Phương pháp nghiên cứu: Các phương pháp tạo dòng tế bào kháng thuốc, 3-(4,5-dimethylthiazol-2-yl)-5-(3-carboxymethoxyphenyl)-2-(4-sulfophenyl)-2H-tetrazolium (MTS), tạo khuẩn lạc và Western blot đã được sử dụng để xác định khả năng đáp ứng thuốc Selumetinib ở mức độ phân tử của dòng tế bào kháng thuốc HT-29/SR so với dòng tế bào ban đầu HT-29/P.
Kết quả: So với dòng tế bào ban đầu HT-29/P, tỷ lệ tế bào tăng sinh mạnh của dòng tế bào kháng thuốc Selumetinib HT-29/SR thể hiện qua kết quả đánh gia sự tăng sinh bằng phương pháp MTS và tạo dòng khuẩn lạc tế bào. Hơn thế nữa, các tín hiệu nội bào MAPK tại vị trí (Y202/T204) và AKT1/2 tại vị trí (S473) của dòng tế bào kháng thuốc Selumetinib HT-29/SR có mức tăng mạnh so với các tín hiệu thu được từ dòng tế bào ban đầu HT-29/P. Đặc biệt, mức độ biểu hiện với E-Cadherin, Vimentin, và Caveolin-1 ở dòng tế bào kháng thuốc Selumetinib HT-29/SR và dòng tế bào ban đầu HT-29/P có sự khác nhau rõ rệt trong đó so với dòng tế bào ban đầu HT-29/P, ở dòng tế bào kháng thuốc Selumetinib HT-29/SR, có mức độ biểu hiện mạnh của Vimentin và Caveolin-1 và có mức độ biểu biện yếu của E-Cadherin.
Kết luận: Bước đầu xác định được sự đáp ứng ở mức độ phân tử của dòng tế bào kháng thuốc Selumetinib HT-29/SR so với dòng tế bào ban đầu HT-29/P thông qua con đường tín hiện nội bào MAPK và AKT và dấu ấn phân tử Caveolin-1.
- DOI : https://doi.org/10.38148/JHDS.0703SKPT22-091
- Chủ đề : Mô hình sức khỏe, ốm đau, bệnh tật, chất lượng cuộc sống
- Loại bài báo : Nghiên cứu gốc
- Chuyên nghành : Chuyên Ngành Y
File toàn văn
- Thông tin liên hệ : Dương Hồng Quân
- Email : dhq@huph.edu.vn
- Địa chỉ : Trường Đại học Y tế công cộng
Bài báo liên quan
- Nghiên cứu In Vitro xác định sự đáp ứng ở mức độ phân tử của dòng tế bào ung thư đại trực tràng HT-29 đối với thuốc Selumetinib
- Trải nghiệm của người bệnh điều trị ngoại trú tại khoa khám bệnh bệnh viện Quân Y 175 năm 2022
- Thực trạng đào tạo liên tục của điều dưỡng tại Bệnh viện 199, Đà Nẵng giai đoạn 2020 – 2022
- Sự tham gia nghiên cứu khoa học của nhân viên y tế Bệnh viện Đa khoa Trung tâm Tiền Giang và một số yếu tố ảnh hưởng 2022
- Tuân thủ quy trình tiêm tĩnh mạch an toàn của điều dưỡng tại bệnh viện đa khoa khu vực Ngọc Hồi năm 2022 và một số yếu tố liên quan
- Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống của người mắc lao phổi điều trị ngoại trú tại Trung tâm Y tế quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2022
- Mô tả trải nghiệm của người nhà bệnh nhi về khía cạnh tiếp cận và thủ tục thanh toán khi điều trị nội trú tại Trung tâm Quốc tế, bệnh viện Nhi Trung Ương năm 2022
- Đánh giá sự hài lòng của người bệnh ngoại trú tại khoa khám bệnh bệnh viện đa khoa khu vực tỉnh An Giang năm 2021
- Thực trạng thu chi tài chính của bệnh viện giao thông vận tải Vĩnh Phúc giai đoạn 2019 – 2021
- Kiến thức, thực hành phòng bệnh sốt xuất huyết dengue của người dân từ 18 đến 60 tuổi tại thị trấn Đăk Đoa, huyện Đăk Đoa, tỉnh Gia Lai năm 2022 và một số yếu tố liên quan
- Phân tích chi phí điều trị mụn, sẹo mụn và di chứng do mụn theo quan điểm người chi trả tại Bệnh viện 1A, Thành phố Hồ Chí Minh năm 2021
- Chất lượng cuộc sống của người bệnh sau tai biến mạch máu não điều trị ngoại trú tại bệnh viện phục hồi chức năng tây ninh năm 2022 và ảnh hưởng từ phía cung cấp dịch vụ
- Động lực làm việc của điều dưỡng và một số yếu tố ảnh hưởng tại Bệnh viện đa khoa khu vực LaGi, Bình Thuận năm 2022
- Thực trạng và một số yếu tố ảnh hưởng tới điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm tại bếp ăn tập thể trong cơ sở giáo dục mầm non Thị xã Trảng Bàng, Tây Ninh năm 2022
- Kết quả hoạt động tài chính tại Khu điều trị theo yêu cầu - Bệnh viện đa khoa Tiền Giang giai đoạn 2015 – 2021
- Thực trạng sốt xuất huyết dengue tại tỉnh Tiền Giang giai đoạn 2012 – 2019